Tên di sản : Đền Thánh Cả
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 3976/QĐ-UBND
Giới thiệu
Quy mô kiến trúc ngày nay:
Đền nhìn về hướng Bắc, vị trí có sông, có đồng ruộng là một cảnh trí thiên nhiên đa dạng cùng với xóm làng, dân cư quy tụ là môi trường xã hội thuận tiện giúp mọi người tu dưỡng tâm linh.
Đây là khối kiến trúc gồm các hạng mục chính: Cổng, sân, đền chính và nhà thờ Mẫu được phục dựng bằng chất liệu bê tông. Trong không gian mở gắn với thiên nhiên, gần với đời, đồng thời sự phân bố không gian trong nhà thờ cũng là biểu hiện chức năng vừa mang tính tâm linh, vừa phục vụ nhu cầu sinh hoạt cộng đồng, với kiến trúc cơ bản trên được bố trí như sau:
Cổng hậu:
Từ trục lộ liên huyện chạy qua xã, cạnh cổng chợ làng là con đường dẫn đến cổng đền. Cổng hậu nhìn về hướng Nam, cao 5m, được dựng bởi hai cột trụ, giữa hai tim cột cách nhau 2,44m, tạo thành một vòm cửa với lối đi ra vào rộng 1,9m, cao 2,5m, phía trên đỉnh vòm đắp mặt hổ phù. Hệ thống hai tầng mái lợp ngói đỏ, tầng trên cách tầng dưới 0,55m, được uốn cong ở các đầu đao, đỉnh nóc trang trí hình hoa lửa.
Hai bên trụ cổng là hai bức tường cánh cao 2,1m, rộng 0,85m, đắp nổi tượng hai vị hộ pháp tay cầm long đao giữ cửa. Giữa hai tầng mái là bức đại tự đề chữ: “Tứ vị Thánh Nương từ” cùng với đôi câu đối viết trên mặt trước trụ cho biết phần nào thông tin về vị thần được thờ tại đền:
Phiên âm:
Cương thường hữu lập do tồn Tống
Hương hỏa huân hao dĩ tự Trần.
Dịch nghĩa:
Lẽ cương thường được lập từ thời Tống
Khói hương thờ tự ngài đã có từ nhà Trần.
Đây là cổng sau của đền nhưng lại trở thành cổng chính bởi nó gắn với trục lộ liên huyện thuận tiện giao thông đi lại cho mọi người khi đến với di tích. Qua cổng hậu theo con đường lát gạch đỏ đi sâu vào 27m là sân đền với diện tích 22,8m x 32,8m cũng được lát gạch bát đỏ có thể chứa đựng được vài trăm người trong các kỳ lễ hội. Các công trình ở sân và phía trước sân được bố trí như sau:
Ở gần cuối sân đặt bức bình phong chấn thuỷ cao 1,8m, dài 2,6m hình cuốn thư cả hai mặt đều đắp nổi phía dưới là cành mai, phía trên đề chữ “Phúc”, hai bên có hai thân cột vuông kích thước 0,25m x 0,25m trên đỉnh đắp hình lồng đèn. Bên trái, cách bức bình phong 5,8m là tấm bảng xây hình chữ nhật có mái che lợp ngói đỏ cao 2,2m, dài 2,8m để ghi công đức của những người góp công, của dựng đền.
Theo hướng của đền về phía Bắc cách bức bình phong 6,5m là Nghinh Môn cửa chính của đền (cửa Tiền) gồm 4 cột nanh xây theo đường thần đạo: hai cột giữa cao 4,5m đứng cách nhau 4,2m, cột vuông mỗi cạnh kích thước 0,65m x 0,65m, đỉnh cột đắp nổi 4 con chim phượng đang uốn mình, đầu tựa trên cạnh cột, đuôi chụm vào nhau cùng lượn cong tạo hình búp hoa. Hai cột giữa đều cách hai cột bên 1,2m, hai cột bên có chiều cao 3,5m, các cạnh vuông kích thước 0,40m x 0,40m, đỉnh cột đắp hai con nghê. Xuống dưới 12 bậc nghinh môn là đến hồ nước hình bán nguyệt tạo thế tụ thủy, hàng phi lao cao vút chạy men theo hồ nước rộng luôn gợn sóng. Bên phải sân là nhà thờ Mẫu.
Nhà thờ Mẫu: Nhìn về hướng Tây, với thiết kế 3 gian mái chảy, hai hồi bít đốc, phía trước hai bên hồi đặt tượng hai con sư tử tạc bằng đá khối, ngồi trên bệ cao 0,5m, dài 0,75m bờm xù, miệng há, để lộ bộ hàm khỏe mạnh, cổ đeo chuông đứng giữ cửa.
Lớp ngói đỏ trên mái đè xuống sườn nhà cùng với hệ thống bờ chảy, bờ nóc liên kết tạo thành khối bền vững. Bờ chảy ở đây được xây từ bát đấu nóc và được giật vuông hai cấp để có chiều cao gần ngang với đỉnh mái, tì lên đầu tầu mái.
Nhà thờ có kích thước chiều dài 7,5m, chiều rộng 4,2m, qua bậc tam cấp là hiên rộng 1,5m, được lát gạch đỏ (kích thước 0,30m x 0,30m), đá bó vỉa hiên chiều dài 0,8m, rộng 0,6m, lát dọc hết chiều dài hiên. Bốn cột đá vuông (kích thước mỗi cạnh 0,20m, cao 1,65m), phía trên có bát đấu đá vuông (kích thước 0,30m x 0,30m, dày 0,25m) làm nhiệm vụ đỡ đầu kẻ bẩy mỗi vì. Thân cột tì lên chân tảng hình cầu vồng (kích thước 0,30m x 0,30m), nổi lên trên mặt nền 0,40m được giật cấp vuông để đỡ thân cột. Mặt cột được chạm gờ chỉ (kích thước rộng 2cm, sâu 1cm), tạo nên hai khuôn hình học chữ nhật kéo dài gần hết thân cột, ở bên trong khuôn hình học này là gờ chỉ chạy song song gặp nhau bởi đường “vanh” các góc.
Qua hiên, là 3 chuông cửa gỗ có kích thước chiều rộng 1,2m, cao 2,1m, mỗi chuồng có hai cánh cửa gỗ, là vào không gian nội tự.
Hệ thống vì kèo giả gỗ gồm 4 vì 3 gian theo kiểu gác chếnh, trốn cột trong trường, các cột lộ ra phía trước, sau mặt tường 1/3 thân cột; cột có đường kính 0,20m, tổng số có 8 cột được tì lên hệ thống chân tảng lộ trên phần nền 0,10m, đế tảng hình lục giác và được giật cấp “ve” tròn tạo nên mặt tương xứng với phần thân cột. Kết cấu cả 4 vì đều giống nhau tạo ra được không gian rộng trong nhà thờ, kích thước các gian 2,30m. Cả 4 vì đều có điểm chung là kiểu giá chiêng chồng rường. Theo thứ tự từ trên xuống kết cấu thượng lương được đỡ bằng trụ đấu tì lên đấu giá chiêng thông qua hai trụ vuông và kết hợp với quá giang chống đỡ phần mái. Nhìn chung trên mỗi vì, kết cấu kiến trúc đều tuân thủ theo quy luật đăng đối trên các con rường, đầu quá giang và kẻ hiện được tạo tác đắp nổi hoa văn lá cúc dây cách điệu.
Đền thờ chính:
Đền thờ Thánh Cả thiết kế hình chuôi vồ gồm Tiền đường và Hậu cung: Toà Tiền đường với 5 gian dài 15,3m, rộng 7,7m gồm 26 cột, 6 vì và gian hậu cung rộng 4,8m dài 6,3m được kiến trúc bằng tường xây trên cơ sở một bộ khung hình hộp.
Một bộ khung với các vì kèo để lộ ra phía trước một hàng hiên rộng 1,5m gồm 5 bậc lên xuống, hai đầu bậc thềm đặt hai con rồng chầu được tạc bằng đá có kích thước chiều dài 1,5m, cao 1m, vừa là vật trang trí trước đền, đồng thời thay cho lan can thềm trước khi bước lên hiên đền. Hiên đền chạy dọc từ gian 2 đến gian 4 được lát gạch đỏ, đá bó vỉa. Do mặt trước hai gian hồi được xây bịt không có hiên để tăng thêm diện tích nội thất đền, thì bức tường cánh ngắn hiên, nghệ nhân đã đắp nổi hai vị hộ pháp cầm binh khí kích thước bằng người thật đứng đối xứng nhau trước hiên. Bốn cột đá vuông ở hiện có kích thước mỗi cạnh 0,20m, cao 1,65m, phía trên có bát đấu vuông (kích thước 0,30m x 0,30m, dày 0,25m) làm nhiệm vụ đỡ đầu kẻ bẩy mỗi vì. Thân cột tì lên chân tảng hình cầu vồng (kích thước 0,30m x 0,30m), nổi lên trên mặt nền 0,40m được giật cấp vuông để đỡ thân cột. Mặt cột được chạm gờ chỉ (kích thước rộng 2cm, sâu 1cm), tạo nên hai khuông hình học chữ nhật kéo dài gần hết thân cột, ở bên trong khuông hình học này là gờ chỉ chạy song song gặp nhau bởi đường “vanh” ở các góc.
Thông qua 2 chuông cửa, mỗi chuông 2 cánh, cao 2,7m được đóng mở bởi một khung ngạch gỗ có then, 2 bẩy có cột đỡ của 2 vì giữa đỡ tàu mái trước tạo ra một không gian hiên rộng 1,2m. Mặt trước 2 gian hội được xây bịt không có hiên để tăng thêm diện tích trong nội thất đền. Kẻ bẩy khớp vào đầu cột con tăng cường cho phần chắc chắn ở điểm nối giữa quá giang và đầu cột con. Xà đai ở đầu cột con liên kết chặt chẽ 2 vì kèo của một gian. Các điểm nối các cột con với nhau làm chức năng giằng néo liên kết như các xà, hoàn chỉnh một bộ khung hình hộp.
Tổng số cột của đền là 32, cột đường kính mỗi cột là 0,40m. Ở Tiền đường có 26 cột, hai cột hiên đá vuông mỗi cạnh 0,30m đỡ đầu "bẩy" hai vì gian giữa, và 4 cột của 2 vì hậu cung. Các cột có chiều cao đến dạ quá giang là 2,7m, đều được tỳ lên mặt chân tảng. Chân tảng đỡ cột các vì làm bằng bê tông giả đá được xây hình bát giác ở thân tảng và được “ve” tròn với điểm tiếp giáp vừa bằng đường kính chân cột. Kích thước chia gian được lấy ở đầu cột, đầu cột là nơi khớp các xà, kẻ theo 3 chiều không gian.
Toà Tiền đường có 6 vì, 2 vì giả đầu hồi để đỡ phần mái hồi, 2 vì cuối có 4 cột với tường bít đốc phần vì ruồi phía đỉnh hồi để khớp giao nối các mái tạo thành đầu đao cong vút. Các vì vừa có chức năng chịu lực, vừa chia gian. Nếu tính từ trái sang vì 1 cách vì 2: 2,7m; vì 2 cách vì 3: 2,7m; vì 3 cách vì 4: 3,3m; vì 4 cách vì 5: 2,7m và vì 5 cách vì 6: 2,7m. Hai gian hồi được xây thêm chái hồi chiếm dụng một phần của hiên, gian giữa của vì 3 và vì 4 rộng nhất (3,3m) lại có cột hiên đắp rồng đỡ kèo tàu mái. Các vì ở đây kết cấu theo lối kẻ suốt giá chiêng, kẻ bẩy hiên. Các câu đầu, bát đấu đều được đắp gờ chỉ, bên dưới xà lòng các vì đều có đầu"dư" đắp hình đầu rồng vây nổi, miệng ngậm hạt chân châu. Hai "bẩy" hiên đắp hình các dây cách điệu. Toàn bộ kết cấu phần vì để chống đỡ phần mái, đảm bảo một sự liên kết vững chắc trước những cơn bão, lụt lội. Lớp ngói mũi dán trên mái vừa đè xuống sườn nhà cùng với hệ thống bờ dải, bờ nóc tạo thành một khối bền vững. Đỉnh nóc trang trí lưỡng long chầu mặt nguyệt.
Hậu cung thiết kế theo lối "Tiền kê đầu, hậu bít đốc" có nghĩa là 2 mái trước được dựa vào tường và mái sau Tiền đường, tàu mái sau được bức tường hậu cây thẳng lên bít đốc.
Ở 2 đầu cột con của 2 vì kèo giữa được liên kết với 2 vì kèo hậu cung bằng hệ thống và thượng, xà hạ. Hai vì hậu cung có 2 cột tạo ra lối đi trong hậu cung, hệ thống chịu lực là đầu quá giang tỳ lên tường.
Phần giao nối giữa tàu mái ở hậu cung và bái đường được xử lý hoàn chỉnh, bằng gờ chỉ đắp công phu, kỹ thuật khi các khoảng chảy của tàu mái trái ngược nhau.
Cấu trúc thờ tự:
Hậu cung là nơi linh thiêng nhất cũng là nơi thần ngự. Một bàn thờ gỗ trên đặt tượng Hoàng Hậu Nam Hán ngôi uy nghi trên ngai, trang phục quý tộc nhưng gương mặt đôn hậu của người Mẹ, một linh vị sơn son thếp vàng đặt sau chân ngai đề chữ "Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Thượng đẳng thần", cùng với Lư đồng, bát hương và đôi ngựa chầu dưới chân bàn thờ như tăng thêm uy kinh của vị nữ thần bằng một hệ thống cửa gỗ ngắn gắn Hậu cung với nhà Tiền đường bên ngoài. Tiền đường là các ban thờ gồm: Tam toà Thánh Mẫu ở gian giữa, gian phải là Hội đồng các Quan, ông Hoàng Mười. Các gian bên trái thờ Trần Hưng Đạo và Thập Nhị chầu bà.
Việc có nhiều ban thờ Mẫu, xuất phát từ quan niệm thờ Mẫu của người Việt để mỗi khi con người cần thấy cầu khấn có thể thắp hương để đáp ứng mọi yêu cầu của đời sống thực.